Apollo là con lai giữa sư tử đực và hổ cái – do đó có tên là liger. Ligers khác với tigons – những con được sinh ra bởi một con sư tử cái và một con hổ đực – bởi vì chúng có xu hướng phát triển lớn hơn nhiều so với bố mẹ của chúng. Chúng lớn đến mức có thể so sánh với hổ răng kiếm thời tiền sử.
Cả sư tử và tigons đều có khuyết tật do sự can thiệp của con người. Nó thường được sinh non, sống thường không quá 12 tuần tuổi. Một số sống lâu hơn 10 năm (tuổi thọ trung bình trong tự nhiên là 10-15 năm, sư tử 10-12 năm, trong điều kiện nuôi nhốt hơn 20 năm) và thường gặp một số vấn đề. các vấn đề như dị tật thần kinh, viêm khớp, còi xương, hệ miễn dịch kém, trầm cảm, không có khả năng sinh sản …
Lịch sử lai giống giữa sư tử và hổ được ghi nhận sớm nhất là vào đầu thế kỷ 19 ở Ấn Độ. Trên thực tế, hai loài hổ và sư tử sống riêng biệt ngoài tự nhiên nên con lai của chúng chỉ được tìm thấy trong môi trường nuôi nhốt. Hiện tại, có ít hơn 1.000 liger trên thế giới.

Theo các chuyên gia thú y, liger là con lai giữa sư tử đực và hổ cái. Phương pháp lai tạo này được đánh giá là rất độc đáo và hiếm gặp. Sư tử được biết đến là loài động vật họ mèo lớn nhất trên thế giới, chúng có những điểm giống nhau giữa cả sư tử và hổ. Khi đến tuổi trưởng thành, sư tử cái sẽ có ngoại hình to lớn hơn bố mẹ. Tuy nhiên, loài chỉ có thể tồn tại trong môi trường nhân tạo do môi trường sống của sư tử và hổ không giống nhau khi ở trong tự nhiên.
Ngay cả trong số những con lai của hai loài này, Apollo vẫn được coi là một cá thể quý hiếm. Cô và ba người anh em của mình là những con sư tử cái màu trắng đầu tiên trên thế giới, được sinh ra bởi một con sư tử đực trắng và một con hổ cái trắng vào tháng 12 năm 2013.
Hồi đó, Apollo là con út trong gia đình 4 người và theo lời chủ nhân, nó cư xử giống mèo con hơn là hổ và sư tử, kêu gừ gừ và luôn đòi được cưng nựng.

Lịch sử lai tạo giữa sư tử và hổ ít nhất là vào đầu thế kỷ 19 ở Ấn Độ. Năm 1798, Étienne Geoffroy Saint-Hilaire (1772–1844) viết mô tả về sư tử và hổ con. Cái tên “liger”, một từ ghép giữa sư tử và hổ, được đặt ra vào những năm 1930. Con liger có hoa văn sọc giống như hổ nhưng màu nhạt hơn và được thể hiện trên nền màu nâu xám nhạt. Những đốm này có thể có màu đen, nâu sẫm hoặc màu cát. Màu nền tương ứng có thể là xám, cát hoặc vàng. Do các vấn đề về nội tiết tố, sư tử hổ khó có thể phát triển đến cuối đời. Chúng mất nhiều thời gian để đạt được kích thước trưởng thành đầy đủ. Không quan sát thấy sự phát triển liên tục về chiều cao vai và chiều dài cơ thể ở những con bò cái trên 6 tuổi.

Liger là loài mèo lớn nhất thế giới còn tồn tại trên hành tinh của chúng ta. Những cải tiến về gen này có thể là nguyên nhân dẫn đến kích thước khổng lồ của loài. Các gen này có thể biểu hiện hoặc không biểu hiện ở bố mẹ, nhưng đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của con lai. Ví dụ, ở một số loài chó lai, những gen này giúp chúng phát triển nhanh hơn so với loài bố mẹ. Sự tăng trưởng như vậy không được thể hiện ở giống bố mẹ vì những gen này thường bị “vô hiệu hóa” bởi các gen di truyền từ thế hệ con của giống đó. Một số con lai trong họ mèo cũng có thể đạt kích thước tương tự như liger: litigon là con lai hiếm gặp giữa ligor đực và cái, một con ligor cái tên là Cubanacan từ Vườn thú Alipore ở Ấn Độ đạt trọng lượng 363 kg. Do sự hiếm có của những con lai thế hệ thứ hai này, rất khó để xác định kích thước trung bình của liger lớn hơn hay nhỏ hơn liger.

Hổ răng kiếm là một trong những loài săn mồi hung dữ nhất trên Trái đất trong Kỷ Băng hà, cách đây 3 triệu đến 10.000 năm ở châu Mỹ. Sở hữu cặp nanh dài tới 25cm và những móng vuốt sắc nhọn, hổ răng kiếm từng là nỗi khiếp sợ đối với nhiều loài động vật sống ở thời kỳ này.
Hổ răng kiếm bắt đầu đánh dấu thời kỳ tuyệt chủng vào khoảng 10.000 năm trước Công nguyên. Hiện nay, có rất nhiều giả thuyết được các nhà khoa học đưa ra về nguyên nhân khiến loài hổ răng kiếm bị tuyệt chủng.
Một bộ phận các nhà khoa học cho rằng sự trỗi dậy của con người thời tiền sử là nguyên nhân chính. Ngoài ra, cuối Kỷ Băng hà đã thu hẹp môi trường sống, thay đổi thảm thực vật và đẩy hổ răng kiếm đến bờ vực tuyệt chủng.
Tài liệu tham khảo: Earthlymission; Sina; ZME